Theo Quan Điểm Của Triết Học Hy Lạp Cổ Đại
Triết học Hy Lạp cổ đại là nền triết học được hình thành vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên đến thế kỷ VI tại Hy Lạp. Triết học Hy Lạp cổ đại được xem là thành tựu rực rỡ của văn minh phương tây, tạo nên cơ sở xuất phát của triết học châu Âu sau này. Alfred Whitehead nhận xét rằng "triết học phương tây thực ra chỉ là một loạt các chú thích cho Plato". Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại tập trung vào hai chủ đề chính. Thứ nhất là mối liên hệ giữa nguyên nhân và hệ quả, hay nói cách khác, tìm câu trả lời cho câu hỏi phải chăng các sự vật hiện tượng vận động theo một chuỗi nguyên nhân-hệ quả tất yếu khách quan hay chỉ là sự trùng hợp, tình cờ ngẫu nhiên. Thứ hai là bản chất và khởi thủy của thế giới tồn tại. Những đại diện tiêu biểu nhất của nền triết học này là Socrates, Plato, Aristotle và Epicurus.
Quá trình hình thành và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại:
Sự phát triển nội tại của triết học Hy Lạp cổ đại chia làm ba thời kỳ sau:
– Triết học thời kỳ sơ khai thuộc giai đoạn cổ xưa của văn hóa Hy Lạp từ thế kỷ VII – VI tr.CN. Đây là thời kỳ thần thoại Hy Lạp bắt đầu phân rã, triết học thay thế thần thoại, mong muốn tìm tòi giải đáp nghiêm túc, hợp lý cho hai vấn đề chung nhất là tồn tại và nhận thức, Các tri thức khoa học hình thành ở thời kỳ này là cơ sở của quá | trình duy lý hóa các hình tượng thần thoại đa nghĩa, mở hồ, không tái hiện để hình thành các khái niệm. Giai đoạn ban đầu này bắt đầu từ cuối thế kỷ VII tr.CN. Phần lớn các triết gia thời kỳ này tập trung trong các trường phái lớn là Milê, Pitago, Ephezơ và Êlê. Trường phái Milễ có Talét (624 – 547 tr.CN), Anaximandro (610 – 546 tr.CN), Anaximen (585 – 525 tr.CN). Trường phái Pitago: người sáng lập là Pitago (580 – 500 tr.CN). Trường phái ÊphezỞ có đại biểu là Heraclít (520 – 460 tr.CN). Trường phái Êlê có đại biểu là Xênôphan (570 – 479 tr.CN), Pacmenit (540 – 470 tr.CN), Denon (490 – 430 tr.CN).
– Triết học thời cực thịnh thuộc giai đoạn cổ điển của văn hóa Hy Lạp là từ thế kỷ V – IV tr.CN. Các đại biểu tiêu biểu của thời kỳ này là Anaxago (500 – 428 tr.CN), Empêđôclơ (490 – 430 tr.CN), Đêmôcrit (460 – 370 tr.CN), Xôcrát (469 – 399 tr.CN), Platôn (472 – 347 tr.CN), Arixtot (384 – 322 tr.CN). Triết học thời kỳ cực thịnh một mặt tiếp tục truyền thống thời sơ khai bàn đến bản nguyên, bản tính thế giới, một điểm mới có tính cách mạng ở giai đoạn này là đi sâu bàn đến vấn đề con người, quan hệ giữa con người với tồn tại và thần linh.
– Triết học thời kỳ Hy Lạp hóa thuộc giai đoạn Hela của văn hóa Hy Lạp từ thế kỷ IV. tr.CN. Khuynh hướng triết học đáng kể nhất trong giai đoạn này là trường phái triết học Êpiquya (341 – 270 tr.CN). Các triết gia thuộc trường phái Êpiquya đi sâu vào nhận thức luận, đạo đức và những tư tưởng này là cơ sở cho sự hình thành phát triển chủ nghĩa cá nhân.
Sự kế thừa và phát triển văn hóa Cận Đông:
Lịch sử và lịch sử văn hóa của nó là một bộ phận không tách rời trong lịch sử các nước phương Đông, trước hết và các nước Cận Đông. Vì vậy, muốn nhận thức đúng về nguồn gốc, quá trình phát triển văn hóa vật chất, tinh thần của Hy Lạp thì phải tính đến những ảnh hưởng to lớn và sự giao lưu của văn hóa Hy Lạp với các nước phương Đông.
Vùng Cận Đông có nhiều nước. Các nước thuộc Lưỡng Hà và Ai Cập là phát triển hơn cả. Lưỡng Hà có ba quốc gia lớn là Sumer, Atxiria, Babylon. Trong cuốn Lịch sử của nhà sử học Hy Lạp Hêrôđốt đã mô tả Babylon như
Xem thêm: Phân tích 3 tình huống để làm rõ tác động của quy luật giá trị
một thành phố vượt xa các thành phố khác trên thế giới về sự giàu có và tráng lệ. Người Balylon sống bằng buôn bán. Họ đã vượt qua vịnh Ba Tư chuyên chở hàng hóa từ Ấn Độ về buôn bán với Tiểu Á, Ba Tư, Kiri. Các nhà thông thái và thầy tế ở Babylon hiểu biết nhiều về thiên văn, lập được bản đồ sao, biết dự đoán nguyệt thực và nhật thực. Như vậy, nền văn minh Lưỡng Hà đã tạo nên những giá trị văn hóa như làm xuất hiện trường học đầu tiên trong lịch sử, ra đời cuốn lịch sử và xuất hiện chữ viết đầu tiên của nhân loại. Nhiều môn khoa học cụ thể ra đời như thiên văn học, đại số, y học. Các truyền thuyết về sự hồi sinh từ cõi chết, các bản tình ca, các câu chuyện ngụ ngôn đầu tiên đều xuất hiện ở đây. Hệ thống pháp chế đầu tiên cũng được soạn thảo từ Lưỡng Hà. Tóm lại, nơi đây bắt đầu cuộc sống tinh thần đầu tiên của nhân loại nói chung, phương Tây nói riêng. Ai Cập cổ đại, Vương quốc của các Pharaôn thần thánh, với ba thiên niên kỷ tồn tại đã hình thành một nền văn hóa đặc sắc và hoành tráng phát minh chữ tượng hình, lập niên lịch, khởi đầu việc xác định niên đại đều đặn, những thành tựu to lớn, trong toán học và y học, những Kim Tự Tháp hùng vĩ, nền điêu khắc cách điệu hóa và hoa văn Ai Cập kỳ thú trên các tường thành, vật dụng, đồ gỗ và dụng cụ gia đình. Đó là đóng góp của người cổ đại vào nền văn hóa thế giới nói chung, văn hóa phương Tây nói riêng.
Vào các thế kỷ VIII – VII tr.CN, thông qua hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hóa với các nước Cận Đông nhất là với Babylon, Ai Cập, người Hy Lạp đã có dịp tiếp xúc, học hỏi và hòa hợp với nền văn minh Lưỡng Hà, Ai Cập. Nội dung tiến bộ của nền văn hóa cổ đại các nước Cận Đông không mất khỏi kho báu tinh thần của nhân loại mà được nền văn hóa Hy Lạp kế thừa phát triển.
Các điều kiện trên quy định nội dung, tính chất của triết học Hy Lạp cổ đại. Nét đặc thù của triết học Hy Lạp cổ đại là có khuynh hướng nghiêng về thảo luận bản thể, bản tính thế giới, thể hiện chủ nghĩa lý tính, hướng về khoa học ngoại tại, khách quan. Vì vậy, triết học Hy Lạp cổ đại đã chứa đựng mầm mống của tất cả thế giới quan duy vật.
Vấn đề đạo đức và chính trị:
Về đạo đức, Xôcrát cho rằng đạo đức và sự hiểu biết quy định lẫn nhau. Có được đạo đức là nhờ ở sự hiểu biết, do vậy chỉ sau khi hiểu biết mới trở thành có đạo đức. Đứng trên lập trường duy tâm chống lại thái độ hoài nghi của phái ngụy biện, Xôcrát đã đối lập niềm tin về sự tồn tại của một đạo đức duy nhất cần thiết, có tính chất bắt buộc đối với tất cả mọi người với thuyết tương đối về đạo đức của phái ngụy biện. “Hiện tượng Xôcrát” gắn với định hướng chính trị của ông. Ông có thái độ miệt thị nên dân chủ. Sự miệt thị ấy của Xôcrát không phải vì ông là người phản dân chủ mà đó là sự phê phán để tạo nên bản chất nền dân chủ. Ý đồ chính trị của Xôcrát là muốn duy lý hóa nhà nước, muốn những người điều hành công việc quốc gia phải có tri thức, phải có hiểu biết. Nhưng chẳng lẽ chính thể dân chủ không hướng đến điều đó.
Đêmôcrát nhà triết học duy vật xuất phát từ bản chất con người để định nghĩa về đạo đức. Ông cho rằng sự hài lòng và không hài lòng là động lực của mọi hành vi. Cảm giác dễ chịu là tiêu chuẩn của điều tốt, ngược lại, cảm giác khó chịu gây nên sự đau khổ là tiêu chuẩn của điều xấu.
Vì thế, con người tìm những cảm giác dễ chịu và tránh cảm giác khó chịu, cũng có nghĩa là con người vượt tới điều thiên và tránh điều ác. Ông cho rằng nếu không giữ điều độ thì cái dễ chịu nhất cũng trở thành cái khó chịu nhất. Đêmôcrát cho rằng sự hoàn thiện đạo đức là có thể có được nhưng phải dưới sự chỉ đạo của lý trí. Lý trí hướng con người vào mục tiêu đúng đắn. Do vậy phải thường xuyên trau dồi lý trí và tiếp thu những vấn đề quy luật của tự nhiên, quy luật hành động của con người. Ông cho rằng con người hành động không đúng là do không hiểu được cái đúng. Cho nên, theo ông, xét cho cùng vấn đề trau dồi đạo đức là vấn đề làm sao cho con người đạt được những tri thức cần thiết… Những cái gì là tiêu chuẩn của đúng và không đúng, của tốt và xấu? Đêmôcrít chưa trả lời được. Đây là chỗ trống sau đó chủ nghĩa duy tâm tấn công.
Ông đứng trên lập trường của phái dân chủ chủ nô, kịch liệt chống lại phải chủ nô quý tộc. Ông ca ngợi tình thân ái, tính ôn hoà, lợi ích chung và quyền lợi chung của công dân tự do. Ông giống Xôcrát ở chỗ là muốn duy lý hóa nhà nước, muốn tất cả những người điều hành nhà nước phải có tri thức, phải có sự hiểu biết. Ông ủng hộ nền dân chủ nhưng ông không hạ thấp vai trò của lý trí.
Đối lập với Đêm rít là nhà duy tâm khách quan Platôn. Ông cho rằng, bản chất đạo đức con người không phải trong bản chất con người mà là trong linh hồn vĩnh cứu, độc lập với con người cụ thể; rằng thế giới hiện thực chỉ là nguồn gốc của những sai lầm và tội ác, Tri thức đúng đắn chỉ có được thông qua sự “hồi tưởng của linh hồn về cái thế giới lý tưởng mà nó nảy sinh từ đó.”. Ông chia linh hồn làm ba bộ phận: phần khôn ngoan, phần mãnh liệt và phần khao khát. Phần thứ nhất là cơ sở của sự thông thái, phần thứ hai là cơ sở của lòng dũng cảm, phần thứ ba là cơ sở sự trân trọng hay chừng mực. Kết hợp hài hòa ba bộ phận ấy, sẽ đạt được đức hạnh, chính nghĩa và cái thiện. Ông coi thượng đế là vị quan tòa tối cao của hành vi con người, vì vậy tôn giáo phải che chở nhà nước lý tưởng để giáo dục công dân sự sùng tín tôn giáo.
Nhà nước lý tưởng của Platôn là nhà nước được xây dựng từ các tầng lớp công dân khác nhau. Sự xác định các tầng lớp căn cứ vào sự phân chia linh hồn, trước hết là các triết gia, hay đẳng cấp vàng tương ứng với phần lý trí của linh hồn, thứ hai, các chiến binh, hay đẳng cấp bạc, tương ứng với phần lý trí của linh hồn; thứ ba, những người lao động chân tay và buôn bán, hay đẳng cấp đồng, sắt, tương ứng với phần dục vọng của linh hồn. Bản chất của nhà nước lý tưởng là công bằng.
Platôn muốn xây dựng một thiết chế nhà nước mới vừa đảm bảo bình đẳng xã hội, vừa cho phép bất bình đẳng về mặt hình thức trong quan hệ giữa các đẳng cấp, nhằm duy trì những thang bậc xã hội cần thiết, tránh tình trạng vô chính phủ như trong nền dân chủ. Nhà nước lý tưởng của Platôn là sự thống nhất những thực thể không bản sắc, hoàn thành những chức năng xã hội của mình không yêu cầu quyền lợi, nhu cầu cá nhân. Trong nhà nước ấy, các công việc của công dân được thực hiện theo sự phân công chung đạt tới sự hài hòa, thống nhất. Trong nhà nước lý tưởng, giáo dục được giành một vị trí xứng đáng hướng con người tới lẽ công bằng và cái thiện. Như vậy, nhà nước lý tưởng mà Platôn hình dung là một tổ chức chính trị hoàn hảo, giải quyết các nhiệm vụ sau: an ninh xã hội cho mọi thành viên và chủ quyền xứ sở; đảm bảo nhu cầu vật chất thiết yếu cho con người và xã hội; định hướng và khuyến khích sự sáng tạo khoa học. Khi các nhiệm vụ ấy được giải quyết thì con người đạt tới cái thiện, Nguyên lý cơ bản của nhà nước này là công bằng, mục tiêu của nhà nước là cái thiện tối cao, phương tiện của nó là giáo dục.
Arirtốt đã có nhiều cống hiến về đạo đức học. Ông cho rằng không phải hy vọng vào Thượng đế áp đặt để có người công dân hoàn thiện về đạo đức, mà việc phát hiện nhu cầu trên trái đất, phát triển những quyền lợi chính trị, khoa học mới tạo nên được con người hoàn thiện trong quan hệ đạo đức, Ông coi đạo đức học có mối liên hệ mật thiết với chính trị, Brixtốt xác định cái gì phục vụ được cho nhà nước và củng cố được trật tự đang tồn tại, cái đó là phẩm hạnh. Tự nhiên chỉ ban cho mọi người khả năng trở thành có phẩm hạnh, những khả năng ấy phải được thực hiện trong hoạt động của con người. Trong đạo đức học của Arixtốt, phạm trù chính nghĩa đứng trung tâm. Ông cho rằng con người chỉ có thể đạt được chính nghĩa trong quan hệ với người khác, cho nên trong thực hành chính nghĩa, con người tự thể hiện mình trước hết như một thực thể chính trị, xã hội. Hạnh phúc của con người là đạt tới những phẩm hạnh hoàn hảo. Phẩm hạnh chính là bản lĩnh lựa chọn những hành vi phù hợp với cái thiện.
Ông coi nghệ thuật quyền lực của nhà chính trị được xây dựng trên cơ sở sự hiểu biết về con người, về đức hạnh công dân và đức hạnh nói chung. Khái niệm công dân hẹp hơn khái niệm con người, phẩm chất của một công dân tốt thuộc về tất cả mọi người, nhưng phẩm chất của con người tốt chưa hẳn thuộc về tất cả công dân. Vì vậy, nhà chính trị trước hết là một công dân, có đức hạnh công dân, vừa là một con người, có đức hạnh con người nói chung. Tóm lại, đó là nhân cách cao thượng. Khoa học chính trị phân tích nguồn gốc, bản chất nhà nước, các hình thức tổ chức xã hội, kiểu xã hội lý tưởng dành cho con người. Tiêu chuẩn để xây dựng hình thức nhà nước kiểu mẫu là khả năng phụng sự lợi ích chung, là đi tìm hạnh phúc cho xã hội. Còn đạo đức lại đi tìm hạnh phúc cho cá nhân. Vì thế giữa chính trị và đạo đức có mối liên hệ với nhau, tác động qua lại nhau.
Epiquya đã đem triết học giải phóng tinh thần con người và đối lập với tôn giáo. Chính ông đã cắt đứt cơ sở tôn giáo của đạo đức, Êpiquya cho rằng những yêu cầu, quyền lợi và khát vọng của con người phản ánh bản chất con người. Nhiệm vụ của đạo đức học theo ông là dạy cho con người biết lựa chọn những thích thú một cách khôn ngoan, biết thỏa mãn những mong ước tất yếu, tránh xa những mong ước vô nghĩa và phản tự nhiên.
Học thuyết của ông chống lại tôn giáo, chống lại nỗi lo sợ về cái chết. Cái sợ hãi phải lùi bước trước nhận thức, Sự anh minh giúp con người thoát ra khỏi sợ hãi, thoát khỏi những dư luận giả dối, đem lại cho chúng ta niềm tin chân lý, gợi cho con người lòng dũng cảm. Sự anh minh làm cho con người ôn hoà, đem lại cho con người công lý – ông rút ra kết luận: sự ôn hoà là nền tảng của cuộc sống hạnh phúc.
Lịch sử triết học phương Tây cổ, trung, cận, hiện đại là lịch sử trên hai ngàn năm phát triển của các hệ thống triết học từ Hy Lạp cổ đại đến một số trào lưu triết học hiện đại xuất hiện trong thế kỷ XX.
Ra đời và tồn tại gần một thiên niên kỷ, triết học Hy Lạp cổ đại là toàn bộ những học thuyết đã phát triển trong xã hội chiếm hữu nô lệ cổ Hy Lạp từ thế kỷ VII – IV tr.CN và thời kỳ Hy Lạp hóa từ thế kỷ III – I tr.CN (từ thế kỷ I đến thế kỷ III là thời kỳ quá độ giữa cổ đại và trung cổ).
Quá trình hình thành xã hội có giai cấp ở Hy Lạp cổ đại, kéo dài từ thế kỷ XI – VIII tr.CN. Kết quả của quá trình này là làm cho vai trò sở hữu tư nhân của giai cấp quý tộc ở Hy Lạp lớn hơn các nước Cận Đông, làm cho công xã tan rã nhanh, tạo tiền đề để hình thành các nhà nước • thị thành, làm xuất hiện sự đối lập giữa thành thị với nông thôn tạo nên hoạt động buôn bán, trao đổi sản phẩm sôi động trong lòng nhà nước • thị thành, giữa các công xã, trên quy mô cả nước. Kết quả ấy cho thấy quan hệ vật chất giữa các cá nhân mà địa vị xã hội được xác định bởi giá trị tài sản của họ đã thay thế quan hệ mang tính chất tự nhiên cùng huyết thống, gia tộc giữa người với người trước đây. Trong cơ cấu kinh tế – xã hội của nhà nước thị thành, lao động cưỡng bức nô lệ giữ vai trò chủ đạo, nên ta gọi hình thái xã hội Hy Lạp cổ đại là hình thái chiếm hữu nô lệ.
Đặc điểm của chế độ kinh tế, xã hội ở Hy Lạp cổ đại đã đem lại tính chất độc đáo cho một nền văn hóa hết sức phong phú. Nguyên nhân quyết định của sự hưng thịnh nền văn hóa này là phân công giữa lao động trí óc và chân tay. Tầng lớp trí thức ở Hy Lạp cổ đại không còn bị ràng buộc với sự hoạt động phụng sự tôn giáo. Họ xuất thân từ tầng lớp thị dân khá giả, thương gia, chính khách.