DOL có 15+ cơ sở tại TP.HCM, Hà Nội và Đà Nẵng

Sự thành lập nước Hậu Kim và triều đại nhà Thanh của người Mãn Châu

Nhà Thanh là một triều đại do người Mãn Châu thành lập, một dân tộc thiểu số du mục ở một số nước Đông Á hiện nay. Vốn là những người du mục bán khai, người Mãn Châu dần chiếm ưu thế tại vùng hiện ở phía đông nam Nga. Quốc gia Mãn Châu được Nỗ Nhĩ Cáp Xích (Nurhaci) thành lập vào đầu thế kỷ 17. Ban đầu chỉ là một nước chư hầu của nhà Minh, ông tự tuyên bố mình là hoàng đế của nước Hậu Kim năm 1616. Cùng năm ấy, ông phát triển các nguồn tài nguyên kinh tế, con người của đất nước cũng như kỹ thuật bằng cách thu nhận những người Hán sống tại vùng Mãn Châu.

Năm 1625, Nỗ Nhĩ Cáp Xích lập thủ đô tại Thẩm Dương (tiếng Mãn: Mukden), nhưng năm sau ông phải chịu một thất bại quân sự lớn đầu tiên trước một vị tướng nhà Minh là Viên Sùng Hoán. Nỗ Nhĩ Cáp Xích chết năm đó. Một trong những thành tựu lớn nhất của ông là việc tạo lập hệ thống Bát Kỳ, theo đó mọi người dân Mãn Châu đều thuộc một trong tám "Kỳ", đó vừa là các đơn vị dân sự vừa mang tính chất quân sự. Các Kỳ được đặt tên như vậy bởi vì mỗi nhóm được phân biệt bởi một lá cờ khác nhau.

Người kế tục Nỗ Nhĩ Cáp Xích, Hoàng Thái Cực tiếp tục tiến hành công việc dựa trên các nền móng được cha để lại, sáp nhập các kỳ của người Hán đầu tiên vào quân đội của mình. Hoàng Thái Cực cũng chấp nhận việc áp dụng nhiều cơ cấu chính trị kiểu nhà Minh vào đất nước mình, nhưng luôn giữ ưu thế của người Mãn Châu trong các cơ cấu đó thông qua một hệ thống định mức phân bổ. Khi Lâm Đan Hãn, vị đại hãn cuối cùng của người Mông Cổ, chết trên đường tới Tây Tạng năm 1634, con trai ông Ngạch Triết (Ejei) đã đầu hàng người Mãn Châu và trao lại ngọc tỉ truyền quốc của hoàng đế nhà Nguyên cho Hoàng Thái Cực.

Năm 1636 Hoàng Thái Cực đổi quốc hiệu thành Đại Thanh, có nghĩa là thanh khiết, biểu hiện những tham vọng đối với vùng Mãn Châu. Cái tên Thanh được lựa chọn bởi vì tên của nhà Minh (明) được cấu thành từ các ký hiệu của chữ nhật (日, mặt trời) và nguyệt (月, Mặt Trăng), đều liên quan tới hỏa mệnh. Chữ Thanh (清) được cấu thành từ chữ căn bản là thủy (水, nước) và từ chỉ màu xanh (青), cả hai đều là mệnh thủy. Trong thuyết Ngũ hành, thì thủy khắc được hỏa, ám chỉ việc nhà Thanh sẽ đánh tan toàn bộ nhà Minh. Trong một loạt những chiến dịch quân sự, Hoàng Thái Cực đã khuất phục được vùng Nội Mông và Triều Tiên trước khi tiếp tục chiếm quyền kiểm soát vùng Hắc Long Giang.

Chiếm Trung Nguyên cùng toàn bộ xứ sở Trung Quốc, nhà Thanh tuyên bố Thiên mệnh Trung Hoa trên khắp thiên hạ.

Bắc Kinh đã bị một liên minh những lực lượng nổi loạn do Lý Tự Thành[31] cầm đầu vào cướp phá. Nhà Minh chính thức kết thúc khi Minh Tư Tông Chu Do Kiểm (Sùng Trinh Đế), vị hoàng đế cuối cùng của nhà Minh treo cổ tự tử tại Môi Sơn cạnh Tử Cấm Thành. Sau khi chiếm Bắc Kinh vào tháng 4 năm 1644, Lý Tự Thành dẫn đầu một đội quân mạnh gồm 600.000 người chiến đấu với Ngô Tam Quế, vị tướng chỉ huy lực lượng đồn trú 100.000 lính bảo vệ Sơn Hải Quan (山海關) của nhà Minh.

Sơn Hải Quan là cửa ải có vị trí trọng yếu ở phía đông bắc Vạn lý trường thành cách Bắc Kinh năm mươi dặm về phía đông bắc và trong nhiều năm lực lượng đồn trú tại đây luôn phải chiến đấu ngăn chặn người Mãn Châu bên ngoài thủ đô Bắc Kinh. Sau khi Lý Tự Thành chiếm được Bắc Kinh, giết cha và cướp thiếp của Ngô Tam Quế, Ngô Tam Quế đã quyết định mở cổng thành đầu hàng nhà Thanh, liên minh với Đa Nhĩ Cổn, khi ấy đang làm nhiếp chính cho Hoàng đế Thuận Trị mới 6 tuổi nối nghiệp Hoàng Thái Cực vừa mất năm trước.

Liên minh này đánh bại các lực lượng nổi loạn của Lý Tự Thành trong trận chiến ngày 27 tháng 5 năm 1644, sau đó đánh chiếm kinh đô Bắc Kinh. Quá trình tiêu diệt các lực lượng trung thành với nhà Minh (nhà Nam Minh), những kẻ nhòm ngó ngôi báu và những nhóm vũ trang cát cứ khác kéo dài thêm 17 năm nữa. Vị vua cuối cùng của nhà Minh, Vĩnh Lịch, chạy trốn tới Miến Điện, tức Myanmar hiện nay, nhưng bị bắt và giao lại cho lực lượng viễn chinh của nhà Thanh do Ngô Tam Quế cầm đầu. Vĩnh Lịch bị hành quyết tại tỉnh Vân Nam đầu năm 1662.

Sự sụp đổ của triều đại Mãn Thanh

Quân đội nhà Mãn Thanh vào giữa thế kỷ 19 có phẩm chất tướng lãnh ngày càng xuống thấp và nạn lính ma tăng cao. Trong cuộc chiến chống lại Thái Bình Thiên quốc, nhà Thanh phải chấp nhận để nhiều đội quân kiểu mới ra đời để cứu vãn như Tương quân của Tăng Quốc Phiên, Sở quân của Tả Tông Đường, Hoài quân của Lý Hồng Chương và đạo quân đánh thuê nước ngoài Thường Thắng quân... Điều này dẫn tới việc vào cuối thế kỷ 19, Nhà Thanh không còn một quân đội quốc gia mà phải tận dụng dân quân và quân đội địa phương, vốn thiếu trung thành với triều đình trung ương. Các sĩ quan trung thành với cấp trên của họ và hình thành những bè phái dựa trên vị trí địa lý. Các đơn vị quân đội tuyển quân ngay tại tỉnh đó. Chính sách này là nhằm giảm sự hiểu nhầm phương ngữ nhưng lại khuyến khích khuynh hướng cát cứ, địa phương hóa. Nhà Thanh đã đi vào vết xe sụp đổ của nhà Hán và nhà Đường trong quá khứ.

Tới đầu thế kỷ 20, hàng loạt các vụ náo động dân sự xảy ra và ngày càng phát triển. Từ Hi và Hoàng đế Quang Tự cùng mất năm 1908, để lại một khoảng trống quyền lực và một chính quyền trung ương bất ổn. Phổ Nghi, con trai lớn nhất của Thuần Thân Vương, được chỉ định làm người kế vị khi mới hai tuổi, và Thân Vương trở thành người nhiếp chính. Tiếp theo sự kiện này, Tướng Viên Thế Khải bị gạt khỏi chức vụ của mình. Tới giữa năm 1911 Thuần Thân Vương lập ra "Chính phủ gia đình hoàng gia", một hội đồng cai trị của Chính phủ Hoàng gia hầu như gồm toàn bộ các thành viên thuộc dòng họ Ái Tân Giác La. Việc này khiến các quan lại cao cấp như Trương Chi Động tỏ thái độ bất mãn.

Cuộc Khởi nghĩa Vũ Xương diễn ra vào ngày 10 tháng 10 năm 1911 dẫn đến cuộc Cách mạng Tân Hợi, và tiếp sau đó là sự tuyên bố thành lập một chính phủ trung ương riêng biệt, Trung Hoa Dân Quốc, tại Nam Kinh với Tôn Dật Tiên làm lãnh đạo lâm thời. Nhiều tỉnh bắt đầu "ly khai" khỏi quyền kiểm soát của nhà Thanh. Chứng kiến tình trạng này, Chính phủ Thanh dù không muốn cũng buộc phải đưa Viên Thế Khải trở lại nắm quân đội, kiểm soát Bắc Dương quân của ông, với mục tiêu nhằm tiêu diệt những người cách mạng. Sau khi lên giữ chức Tể tướng (內閣總理大臣 Nội các tổng lý đại thần) và lập ra chính phủ của riêng mình, Viên Thế Khải còn tiến xa nữa khi buộc triều đình phải cách chức nhiếp chính của Thuần Thân Vương. Việc cách chức này sau đó được chính thức hoá thông qua các chỉ thị của Hiếu Định Cảnh hoàng hậu.

Khi Thuần Thân Vương đã buộc phải ra đi, Viên Thế Khải và các vị chỉ huy bên trong Bắc dương quân của mình hoàn toàn nắm quyền chính trị của triều đình nhà Thanh. Ông cho rằng không có lý do gì để tiến hành một cuộc chiến tranh gây nhiều tốn phí, đặc biệt khi nói rằng chính phủ nhà Thanh chỉ có một mục tiêu thành lập một nền quân chủ lập hiến.

Tương tự như vậy, Chính phủ của Tôn Dật Tiên muốn thực hiện một cuộc cải cách dân chủ, vừa hướng tới lợi ích của nền kinh tế và dân chúng Trung Quốc. Với sự cho phép của Hiếu Định hoàng hậu, Viên Thế Khải bắt đầu đàm phán với Tôn Dật Tiên, người đã cho rằng mục tiêu của mình đã thành công trong việc lập ra một nhà nước cộng hòa và vì thế ông có thể cho phép Viên Thế Khải nhận chức vụ Tổng thống của nền Cộng hoà. Năm 1912, sau nhiều vòng đàm phán, Hiếu Định đưa ra một chiếu chỉ tuyên bố sự thoái vị của vị ấu vương, Phổ Nghi. Nhà Thanh đến đây kết thúc sau 12 triều vua, truyền được 295 năm (trong đó có 267 năm là triều đại chính thống của toàn Trung Hoa).

Sự sụp đổ của nhà Thanh năm 1912 đánh dấu sự kết thúc của hơn 2000 năm phong kiến Trung Quốc và sự khởi đầu của một giai đoạn bất ổn kéo dài, không chỉ đối với quốc gia mà ở một số mặt còn đối với cuộc sống của người dân. Tình trạng lạc hậu rõ rệt về chính trị và kinh tế cộng với sự chỉ trích ngày càng tăng về văn hoá Trung Quốc dẫn tới sự ngờ vực về tương lai của họ.

Lịch sử hỗn loạn của Trung Quốc từ sau thời nhà Thanh ít nhất cũng có thể được thấu suốt một phần trong nỗ lực nhằm tìm hiểu và khôi phục lại những mặt quan trọng của văn hoá lịch sử Trung Quốc và tích hợp nó với những ý tưởng mang nhiều ảnh hưởng mới đã xuất hiện trong thế kỷ đó. Nhà Thanh là khởi nguồn của nền văn hoá vĩ đại đó, nhưng những sự hổ thẹn họ phải gánh chịu cũng là một bài học cần quan tâm.

Bộ máy hành chính quan trọng nhất của nhà Thanh là Đại hội đồng, là một cơ quan gồm hoàng đế và các quan lại cao cấp. Nhà Thanh có đặc trưng bởi một hệ thống chỉ định kép, theo đó mỗi vị trí trong chính phủ trung ương đều có một người Hán và một người Mãn Châu cùng quản lý. Ví dụ, ở thời Hoàng đế Càn Long các thành viên của gia đình ông được phân biệt bởi một loại trang phục với biểu tượng hình tròn ở phía sau lưng, trong khi người Hán chỉ được mặc trang phục với một biểu tượng hình vuông; điều này có nghĩa là bất kỳ người lính nào trong cung đều có thể dễ dàng phân biệt các thành viên gia đình hoàng gia mà chỉ cần quan sát từ phía sau.

Đối với Mông Cổ, Tây Tạng và Đông Turkestan, giống như các triều đại trước đó, nhà Thanh vẫn giữ quyền kiểm soát đế quốc với việc hoàng đế kiêm vai trò Hãn Mông Cổ, người bảo trợ của Phật giáo Tây Tạng và người bảo vệ cho Hồi giáo. Tuy nhiên, chính sách của nhà Thanh đã thay đổi với việc thành lập tỉnh Tân Cương năm 1884. Để đối phó với các hành động quân sự của Anh và Nga tại Tân Cương và Tây Tạng, nhà Thanh đã phái các đơn vị quân đội tới và họ đã đương đầu khá tốt với quân Anh.

Sự từ bỏ địa vị của hoàng đế Thanh đương nhiên dẫn tới tình trạng tranh cãi về địa thế của các lãnh thổ tại Tây Tạng và Mông Cổ. Quan điểm của những người theo chủ nghĩa quốc gia Tây Tạng và Mông Cổ thời ấy cũng như hiện tại cho rằng bởi vì họ đã trung thành với nhà Thanh thì khi nhà Thanh từ bỏ vị thế của mình họ không còn bổn phận gì nữa đối với nước Trung Hoa mới. Lập trường này bị Trung Hoa Dân Quốc và sau này là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bác bỏ dựa trên các yêu sách của họ cho rằng trên thực tế các vùng này từng là các vùng đất thuộc các triều đại Trung Quốc từ trước cả nhà Thanh.

Bất kỳ thuộc sắc tộc nào, người Hán, người Mãn Châu, người Mông Cổ hay những nhóm thiểu số khác, tất cả họ đều đã thành lập lên các triều đại với tính chất Hán trung tâm (Sino-centric), và cho rằng lịch sử cũng như tính chính thống của các lãnh thổ này đều là một phần của đế quốc Trung Quốc trong hơn hai ngàn năm qua. Các cường quốc phương Tây chấp nhận lý thuyết sau này, một phần với mục đích tránh tranh cãi với Trung Quốc.

Hệ thống hành chính của nhà Thanh dựa trên hệ thống trước đó của nhà Minh. Ở tình trạng phát triển nhất, chính phủ Thanh tập trung quanh Hoàng đế với tư cách là người cầm quyền tối cao chỉ huy sáu bộ, mỗi bộ do hai Thượng thư (尚書, Shángshù) đứng đầu và được hỗ trợ bởi bốn Thị lang (侍郎, Shílāng). Tuy nhiên, không giống như hệ thống của nhà Minh, chính sách căn bản của nhà Thanh quy định rằng việc chỉ định chức vụ được phân chia giữa quý tộc Mãn Châu và quan lại Hán, những người đã vượt qua các kỳ thi tuyển ở mức độ cao nhất của nhà nước.

Hầu như trong toàn bộ thời gian tồn tại của nhà Thanh, bộ máy quan lại của Hoàng đế đều có sự hiện diện của Quân Cơ Xứ (軍機處), một cơ quan chuyên trách các vấn đề quân sự và tình báo, nhưng sau này nó lại chịu trách nhiệm giám sát mọi bộ của chính phủ. Các vị quan quản lý Quân Cơ Xứ nắm luôn vai trò Tể tướng, và một vài người trong số họ từng được chỉ định làm người đứng đầu Quân Cơ Thủ Phụ (軍機首輔). Sáu bộ và các lĩnh vực quản lý của họ như sau:

Lại bộ (吏部) - Quản lý nhân sự hành chính cho mọi chức vụ dân sự - gồm cả đánh giá, bổ dụng, và thải hồi. Bộ này cũng chịu trách nhiệm lập 'danh sách danh dự'.

Hộ bộ (户部) - Dịch nghĩa theo từ Trung Quốc, "hộ" (户- 'hú') có nghĩa là 'gia đình'. Hầu như trong toàn bộ thời cai trị của nhà Thanh, nguồn thu chính của chính phủ có từ thuế do các chủ đất đóng và các khoản phụ khác từ độc quyền nhà nước như các vật dụng gia đình thiết yếu là muối và trà. Vì thế, với ưu thế áp đảo của trồng trọt ở thời nhà Thanh, 'gia đình' là gốc cơ bản của nguồn tài chính quốc gia. Bộ này chịu trách nhiệm thu thuế và quản lý tài chính cho chính phủ.

Lễ bộ (禮部) - Bộ này chịu trách nhiệm mọi vấn đề liên quan tới nghi thức lễ tân tại triều đình, gồm cả không chỉ những lễ thờ cúng tổ tiên định kỳ và nhiều vị thánh thần khác của Hoàng đế—với tư cách "Thiên tử" (天子 - con trời), để đảm bảo sự hoạt động trơn tru của đế chế—mà còn chịu trách nhiệm cả vấn đề tiếp đãi các sứ đoàn từ các nước tới nộp cống. Quan niệm Trung Quốc về lễ (礼), theo Khổng Tử dạy, được coi là một phần của giáo dục.

Từng có quan niệm rằng một học giả phải "tri thư, đạt lễ" (知書達禮) có nghĩa là phải học rộng và cư xử đúng lễ nghi. Vì thế, một chức năng khác của bộ này là giám sát các hệ thống thi cử dân sự trên toàn quốc để lựa chọn quan lại. Bởi vì dân chủ là một vấn đề chưa từng được biết tới ở thời tiền Cộng hòa tại Trung Quốc, các triết lý Khổng Tử mới coi các cuộc thi cử của nhà nước là con đường để chính thống hóa một chế độ bằng cách cho phép nhân tài tham gia vào chính quyền độc đoán và khép kín trước đó.

Binh bộ (兵部) - Không giống thời nhà Minh trước đó, vốn kiểm soát toàn bộ các lĩnh vực quân sự, Binh bộ nhà Thanh có quyền lực rất hạn chế. Đầu tiên các Kỳ binh (quân chủ lực) nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của Hoàng đế và các hoàng tử người Mãn Châu và Mông Cổ, khiến cho bộ này chỉ có quyền lực đối với các lộ quân địa phương. Hơn nữa, các chức năng của bộ hầu như chỉ đơn thuần là hành chính - các chiến dịch và các đợt diễn tập quân sự được chỉ huy và giám sát bởi Hoàng đế, đầu tiên thông qua hội đồng quản lý người Mãn Châu và sau này là Quân Cơ Xứ (軍機處).

Hình bộ (刑部) - Hình bộ xử lý mọi vấn đề pháp luật, gồm cả giám sát các tòa án và nhà tù. Bộ luật hình sự nhà Thanh khá yếu kém so với các hệ thống luật pháp hiện đại hiện nay, bởi vì nó không có sự phân biệt giữa các nhánh hành pháp và lập pháp trong chính phủ. Hệ thống pháp luật có thể mâu thuẫn, và khá nhiều khi tỏ ra độc đoán, bởi vì Hoàng đế cai trị bằng nghị định và là người đưa ra phán quyết cuối cùng đối với mọi vấn đề luật pháp.

Các hoàng đế có thể (và đã) đảo ngược các phán quyết của các tòa án cấp dưới tùy theo từng lúc. Sự công bằng trong đối xử cũng là một vấn đề dưới hệ thống phân biệt chủng tộc do chính phủ Mãn Châu áp dụng đối với cộng đồng đa số người Hán. Để giảm bớt các vấn đề không thỏa đáng đó và giữ cho dân chúng sống yên ổn, nhà Thanh áp dụng một hệ thống luật hình sự rất khắc nghiệt đối với người Hán, nhưng không tới mức nghiêm khắc quá đáng như ở các triều đại trước đó.

Công bộ (工部) - Công bộ xử lý mọi dự án xây cất của triều đình gồm các cung điện, đền đài và sửa chữa các đường thủy cũng như các kênh tiêu lũ. Họ cũng chịu trách nhiệm đúc tiền.

Ngoài sáu bộ kể trên, có một Lý Phiên Viện (理藩院, Lǐfànyuán) và đây là cơ quan chỉ riêng có ở nhà Thanh. Cơ quan này ban đầu chịu trách nhiệm điều hành quan hệ với các đồng minh Mông Cổ. Khi đế chế mở rộng thêm, nó nhận thêm các công việc hành chính đối với tất cả các nhóm thiểu số sống trong và ngoài đế chế, gồm cả những tiếp xúc đầu tiên với Nga - khi ấy còn được coi là một quốc gia triều công. Cơ quan này hoạt động như một bộ thực sự và vị quan đứng đầu cũng có mức hàm tương đương. Tuy nhiên, ban đầu những ứng cử viên lãnh đạo nó chỉ là người thuộc dân tộc Mãn Châu và Mông Cổ.

Dù Lễ bộ và Lý Phiên Viện có một số trách nhiệm chung trong ngoại giao, chúng vẫn không được sáp nhập vào nhau. Điều này xuất phát từ quan điểm truyền thống của đế quốc coi Trung Quốc là trung tâm của thế giới và mọi người nước ngoài đều là những kẻ mọi rợ chưa khai hóa không xứng đáng có tư cách ngoại giao tương đương với họ. Chỉ tới năm 1861—một năm sau khi thua trận trong "Chiến tranh nha phiến lần thứ hai" trước liên minh Anh-Pháp—chính phủ nhà Thanh mới lùi bước trước sức ép của nước ngoài và lập ra một bộ ngoại giao thực sự được gọi theo một cái tên dài lê thê là "Tổng lý các quốc sự vụ nha môn" (總理各國事務衙門), hay nói gọn là "Tổng lý nha môn" (總理衙門)).

Ban đầu cơ quan này được dự định tạm thời sử dụng các viên chức thuyên chuyển từ Quân Cơ Xứ (軍機處) theo kiểu làm việc bán thời gian. Tuy nhiên, khi việc giải quyết vấn đề với những người nước ngoài ngày càng phức tạp và thường xuyên, cơ quan ngày càng mở rộng và trở nên quan trọng, và càng có ưu thế khi được sử dụng tiền thu từ thuế hải quan. Dù triều đình nghi ngờ về mọi thứ liên quan tới nước ngoài, văn phòng này đã trở thành một trong những bộ có nhiều quyền lực nhất bên trong chính phủ nhà Thanh.